Gà trống: Vào khoảng một năm trên dưói mới cho là trưởng thành, tuổi vừa để cáp đả, cũng phải giáp một niên trỏ đi.
Khi gà trưởng thành, phải nghĩ ngay đến chuyện cắt tích, cắt tai, sốm cắt bỏ những miếng da vô nghĩa đó.
Sau khi cất tích, tai, gà được thả ra sân cho sung sức rồi lại nhốt, cho ăn uống thỏa thê, lúa đãi sạch trấu, nưốc mưa thật trong, thỉnh thoảng phải cho ăn rau, cá, thịt, trứng và nhất là cà chua, gà mối sung và đẹp.
Khi gà lành mạnh hoàn toàn, lựa một ngày ráo tròi đêm sổ thử để tìm hiểu thế đá, có ngón nghề gì xuất sắc, nưốc chịu đòn ra sao, về khuya chống trả như thế nào. Nghiên cứu cho kỹ để sau dễ lựa gà cáp độ. Nếu là “gà đòn”, sau đó cứ thả vào chuồng riêng nuôi thúc (dưỡng), cho ăn tẩm bổ, điều độ là cần thiết.
Tập xổ thử như thế chừng vài kỳ, cách nhau khoảng nửa tháng, là có thể đem đi đá sau khi nuôi thúc tốt.
Nhưng nếu “gà cựa”, như thế chưa đủ, vì cựa chưa dài, chưa biết tung ngón cước, múa lưỡi dao, phải chồ đúng tuổi là khoảng 16 hay 17 tháng trồ đỉ, khi ấy mới biết đưọc thứ dữ hay thứ vừa. (Chú ý: xổ lần 1 đến 10 phút, lần 2 khoảng gấp đôi và lần 1 là hai hồ nửa tiếng). Cũng chẳng nên xổ quá nhiều, sau này gà sẽ quen tật lúc còn tơ, chỉ đá một chập lúc rồi lôi thôi không chịu đá nữa, thêm phiền.
Khi rảnh rang mới nghĩ đến chuyện hốt lông, lông nách lông đầu thì hốt, sạch tróc, còn lông cổ thì chừa lại một túp sát cần, chỗ ấy là chỗ yếu, da non, phải có lông
che kín, cần xén lông dạ dưới, chừa năm ba sợi che đít. Nơi đùi hốt trọn chừa đủ mấy sợi đõ lạnh, về non và ba sườn làm cho sạch trơn, cho nghệ mau thấm, khi đá nếu
Tìm một thứ rượu thuốc bóp, dùng khăn nhám chấm và thoa khắp thân thể gà, thoa xong đôi ba lượt, thả gà ra sân úp bội phơi nắng dịu, mai lại tắm và thoa (tắm bằng nước trà hoặc nưốc lá ổi) làm đồi ba lượt.
2) Đi hơi.
Lúc sổ gà, lấy vải dày bịt mặt, bịt mỏ, chừa mắt, bịt cựa, bịt thổi, lúc đá không thể mổ cắn được chỉ “nạp xạ” chân không, tập như thế lâu ngày, cốt cho gà bền sức, lâu mệt, giỏi “nạp xạ”, giỏi “quăng”.
3) Chạy lổng.
Nhốt gà trong chuồng, để hai con thấy nhau, nhưng không đá được (tương kiến bất tương đá) hai con sẽ phẫn nộ, đá bóng nhau, như thế cốt cho gà bền chí, quyết chiến đấu.
4) Om gà.
Lấy nồi đất, đựng ít nước tiểu pha vói rượu thuốc, nấu sôi, rồi lấy vải bọc ngải cứu và nghệ giã nát, chấm nước tiểu thuốc, bóp sơ cho nước ấy ra bớt, rồi dùng túi ấy ép trên thương tích ỏ mình gà, gà sẽ nhanh lành những vết thương khi đá sau này và vết thương hiện có, đồng thời thêm da xương cứng chắc.
5) Vô nghệ.
Loại nghệ tàu, để lâu ngày cứng như đá, có bán tại tiệm thuốc bắc là tốt nhất, bằng không dùng nghệ ta, già mói tốt.
Sau khi xổ, tắm cho gà xong, lấy nghệ mài ra như bột và ngâm gồm: Nghệ + quế chi + một ít nưóc lạnh + một chút thuốc bóp + một chút nước tiểu con trai + nửa phần rượu đế + một chút muối bột + một chút phèn chua tán nhỏ ngâm chung với vài cái đinh sét. Sau đó trộn lại sền sệt như hồ, dùng bàn chải cọ xát vào da gà, chấm nước nghệ chà vào gà, thoa luôn cả cẳng xong, ôm gà ra sân tắm nắng dịu trong bột, mai sau gà sẽ chắc như đá. Tắm nắng khô mình thì đem vào tẩm nghệ và xả nghệ (tắm bằng xác trà) cho phai sạch.
6) Xổ gà.
Hớt lông và vô nghệ rồi, vài ngày sau bắt gà xổ thử, lựa hai con đồng chạn đồng sức, thường là xổ hai nưóc, mỗi nưốc 10 phút, sau mỗi nưốc nên cho gà nghỉ vài ba phút, coi chừng xổ lâu hỏng gà. cần nhất là xổ có chừng độ, nửa tháng một lần, cứ như vậy khoảng vài ba lần là có thể “cáp đá”. Trong khi xổ, phải biết “vỗ hen”, xổ xong nước đầu, phải vỗ hen, kẻo không trong họng có trầy trụa, sẽ đóng dòm thành cục, và khò khè thỏ mãn đòi.
– Cách vỗ hen: Kẹp gà một bên hông, hai chân gà hỏng đất, tay phải nắm đầu gà, ghì xuống, đưa ngón tay mở miệng gà, tay kia nắm một khăn sạch, có thấm nướẹ, bóp cho nưốc chảy vào họng gà, đoạn ghì đầu gà chúi xuống vỗ bì bạch vào họng gà, bao nhiêu nhớt dòm chất bẩn ra sạch. Khi thấy hết, cho gà uống chút nưốc cho thông cổ, còn có khi lây lá trầu tươi hoặc lá ổi nhàu nát, gói một cục muối nhỏ bằng hạt ngô nhét vào miệng gà, đó là món thuốc ngừa độc đòn gió rất tốt, sau đó tắm sạch (chỉ dùng khăn ưót lau thân thể gà mà thôi, nếu làm ướt lông gà nhiều sẽ cảm lanh mà chết). Xong đem phơi nắng dịu, cho khô lông và đem đi nghỉ.
7) Dẩm cẳng.
Sau những bữa ăn tối, hất gà “dầm Gẳn^’ vào một chậu nưốc thuốc, mực nưổe cao đến đần gối, nước ấy gồm có:
Nước tiểu pha rượu trắng + một chút muối ăn + một chút phèn chua + một ít thuốc rê + một ít đinh sét. Ngâm: như vậy, cốt luyện cặp eân gà cứng như đãi, khô) rang như chân gà chết.
8) Nuôi thúc trước kM đà’ (dỉtíỡngh
Thời gian nuôi thúc, tối thiểu cũng phải 10’ngày trước khi đá, sau khi làm đu cách huấn luyện như trên.
Mỗi sáng sớm từ ba đến bốn giờ (giờ nhất định), cho gà uống nước, uống thật điểu độ, dùng chén, có cỡ đong cẩn thận, không được để gà uống tự do (một chén là một chén), như vậy gà sẽ không, hốc nưôc khi đá, bền sức hơn.
Sáng khoảng 5 già cho gà tắm sương, dùng một khăn lông phơi ngoài tròi, từ chập tối, đến 5 giờ sáng khăn ấy sẽ ướt, vì thâ’m sương trời. Trước khi thả tắm, dùng khăn vắt nước sương ấy cho gà uống ít giọt, rồi cũng khăn ấy lau khắp thân thể gà trưốc khi thả quần sương (kỵ đạp mái, gà mất sức). Không quên phun vào gà một chút rượu trắng cho máu chạy đều, đến chiều, mặt tròi xuống nắng dịu, cũng phơi gà một chút cho quen, cũng chẳng quên phun rượu. 5 giờ thả, 6 giờ bắt vào nhốt và cho ăn đúng bữa tuyệt đối. Bữa sáng từ 8 giò đến 9 giò, bữa chiều từ 6 giò đến 7 giò, giờ nhất định mới cho ăn, có thể sớm muộn đôi chút. Thí dụ: Sáng 9 đến 10 giờ, chiểu 5 đến 6 giờ.
Thức ăn thường là: Lúa đãi sạch trâu, được ngâm nước cho mọc mộng mới tốt, hoặc lúa nấu chín, đem phơi nắng cho khô thì tốt hơn. Nhiều nơi công phu dùng Ma nấu chín, rắc men, phơi sương một đêm, phơi khô rồi dùng cho gà ăn, gà sẽ sung hơn, nặng hơn và chắc. Tối bữa cho gà ăn, gà đang ăn rồi thôi, bỏ đi chỗ khác, lập tức eất lúa ngay, mặc dù mới ăn ít (không cho ãn dầm dề), đến bữa khác mới được ăn. Nếu có thuốc tiêu, nên cho uôhg một chút sau bữa ăn.
Nước uống phải để luôn luôn cho gà (nưổc mưa là tốt), nước có cát bụi bẩn, phải thay ngay. Ngoài hai bữa ăn chính, còn những thức ăn bổ dưỡng sau đây: Khoảng hai hay ba ngày cho gà ăn một quả trứng gà (chỉ ăn lòng đỏ), thịt, cá sông, nhất là lươn, chặt khúc nhỏ (đừng để mất mâu tươi), cho ăn sống, các thứ rau, trong thời gian dưỡng nên cho ăn cà chua, nếu có các thứ đậu càng tốt (đậuxanh, lạc, đậu tương v.v…) thêm vào.
Những thức ăn bổ dưỡng kể trên, lúc nào có thì cho ăn, không cần thời gian cố định, nhưng cũng không nên cho ăn no khi gần đến bữa chính là lúa (không quên một vài ngày lại cho ăn sắt vụn một lần, mỗi lần ăn chừng vài cục nhỏ bằng hạt ngô, hạt đậu, sắt không có cạnh bén).
Buổi tối, trước khi đi ngủ, không quên ép gà uống nước một lần nữa, như thế gà sẽ nở cần cổ to hơn.
Trong thời gian thúc dưỡng, luôn luôn theo dõi phân gà, cho biết gà có phân khô cứng, tròn cục là gà sung sức, nếu đi ra nước, hoặc sệt là bộ tiêu hoá kém tốt, thiếu sung, cần nuôi gà thật chắc thịt, không bủng beo và có mỡ dư, béo.
Lúa cho ăn được để trên cao, gà phải nhón gót mối ăn được (tập nhóng cao) sẽ tốt gà.
Cho gà ăn là khi ở nhà, lúc mang đi đá, tuyệt đô! không thả cho ăn bậy, ngừa kẻ đầu độc. Đang thôi thúc, nếu được gần một con gà trống khác (tướng kiến bâ’t
tương dã), gà sung sức, đi tới đi lui, tránh được mỡ dư càng tốt (hình thức như vần xoay). Trước khi đó, phải biết rằng gà không hề khó chịu trong mình.
* Tập luyện gà.
Gà gần ngày ra độ càng được luyện thúc kỹ càng, trước đó phải lo nhồi gà.
+ Cách nhồi là ôm con gà để trước mặt, vô tay gà và nhồi lên xuống nhẹ nhẹ cho chân gà cách mặt đất độ 3 hoặc 4 tấc, nhịp đều, bỗng nâng cao lên một chút và rút ra ngay, tự nhiên gà mất thăng bằng và rơi xuống, sẽ chống cẳng và phải dùng hai gối chống chọi cho khỏi ngã.
+ Cũng như trên, lần này thả cho gà ngã chúi về phía trước, rồi lại tiếp tục cho ngã về phía sau, ngã bên phải, ngã bên trái, đó là thể thức “nhồi gà”. Tập như thế, gà sẽ vững vàng đôi chân, tránh yếu gối và cũng đồng thòi tiêu bớt mỡ dư, mỗi ngày khoảng mươi mười lăm phút là đủ.
+ Khi tập nhồi phải cho ăn một chút cam thảo, nấu lấy nước uống, như vậy gà thỏ thông, chẳng kéo dòm lúc mệt. Trước khi đá ba, bốn ngày, cũng cho uống nưóc cam thảo nói trên, khi đá gà ít bị dòm lên chặn cuống họng khiến gà khó thỏ, mệt sức.
SẮP ĐẶT RA TRƯỜNG
Bữa ra trường, sáng tinh sương lồ lão “sư kê” đốn trại gà, bản thân ôm từ con trổng ra khỏi chuồng, vuôìt ve mơn trớn (nựng) đã đời rồi mới cho vào lồng ép. Phép nhốt gà vào lồng ép cũng có kỷ luật và cũng rất nghệ thuật. Phảị bưng con gà đút ngược, để chui đuôi vào trước, nhà điệu nghệ không bao giờ đút đầu gà vào trước, vì có ý hiểu đưa đầu gà chui vào là “mất thể thống con gà” và đút đuôi vào trước thì khi vào lồng, con gà ngó mặt ra cửa, xem oai nghi hơn. Khi đến trường đấu, đưa gà vào bội, thì y như “rước cô dâu”, mỏ cửa “thỉnh” ra chứ không bắt đỉ ngược, mất thể thấng và vẻ long trọng đi. “Sư kê” quan sát một lần cuối trước khi đưa gà ra cho đấu, tay vuốt mã gè, miệng “tróc tróc” kêu tên từng con một, “hỏi han ân cần” như một vị tướng khuyến khích binh sĩ trước khi khai chiến.
Trên mỗi lồng ép, đều có choàng một chiếc khản vuông vải đã, khăn này luôn luôn phải che theo chiều nắng, không khéo con gà say nắng, hay ngộ cảm vì ngọn nắng chói ngay đầu ngay mắt thì nguy to.
“Sư kê” cũng có phận sự kiểm tra lương thực của gà, phải nhổ mang theo nước ở nhà cho gà uôhg, e chừng không quen nước lạ, ngộ thòi bị chanh nưóe, chói nưốc, thì còn gì công phu luyện tập. Cơm ở nhà nếu để nguội, vất sẵn, hờ khi đụng độ sẽ có cho gà ăn cầm hơi. Trước khi gặp độ, không gà nào được ăn lúa sáng, bữa ra trường đấu và chỉ được uốhg nước cầm chừng trừ bữa ăn.
Kinh nghiệm cho biết, gà có hạt lúa trong bầu diều chưa kịp tiêu không khác võ sĩ ăn no, xáp trận, chúng đánh ói cơm mà báo.
Đồ nghề lợi hại, dụng cụ tối tân của “sư kê” là chiếc khăn điều để bồng nước. Khách chơi gà, xem trọng như “lá cờ lệnh” của một đạo binh, đố ai dám sờ trừ phi lão “sư kê” đi đâu cũng vắt trên vai. Rất hãnh diện còn hơn kép hát bội với mấy lá cờ xanh, đỏ cắm sau lưng và mỗi khi chiếc khăn rơi giữa trưòng đấu hay trong chậu nưốc, là biểu hiện “sư kê” và “chiến kê” đã đầu hàng vô điều kiện không khác chi trên võ đài, bọn làm nưóc quăng khăn nưốc lên đài, để cứu chàng võ sĩ, bị người đánh hơn đánh cho.
Ngoài “chiếc khăn lệnh”, “sư kê” còn có một hộp thiếc nhỏ, đựng đủ thập vật, từ cây kim sợi chỉ may, dao con thật bén, kéo nhọn, vải sạch, miếng sành miếng bát (dành khi làm cựa). Còn bao nhiêu đồ tế nhuyễn khác, đều là dụng cụ “bí mật” phòng khi gấp rút thì có sẵn, chuốt cạo mũi cựa cho thêm dữ, vá vết thương, may chỗ bị đâm v.v…